10 sự sụp đổ của doanh nghiệp gây sốc nhất thập niên

2010s là thập kỷ có nhiều biến chuyển lớn trong tất cả các ngành khi sự phát triển của công nghệ kéo theo sự thay đổi căn bản cách người tiêu dùng và doanh nghiệp tương tác. Bên cạnh sự vùng lên chiếm lĩnh một vị trí vững chãi trong ngành của những ông lớn như Amazon, Netflix, Facebook, Apple,… thì lại là sự đánh dấu chấm hết cho một số không ít doanh nghiệp không theo kịp sự thay đổi của thế giới. 

Dưới đây là một số “thảm họa doanh nghiệp” lớn nhất của kinh tế thế giới trong thập niên – theo danh sách của Business Insider:


1. Payless

Với hơn 60 năm tuổi, Payless đã từng là chuỗi giày dép thuộc sở hữu gia đình lớn nhất ở Hoa Kỳ. Đạt đỉnh cao kinh doanh vào những năm 1990, Payless từng bán được 250 triệu đôi giày mỗi năm. Điểm đặc biệt nằm ở chiến lược tự phục vụ, khi cho phép khách hàng tự do mua giày, công ty này cắt giảm được một lượng lớn nhân sự và tiết kiệm đáng kể chi phí vận hành. Thêm vào đó, một điểm mạnh của Payless so với các đối thủ trên thị trường là những đôi giày giá rẻ: chỉ từ 3 đô la khi ra mắt ở thời điểm những năm 50 (tương đương với 25 đô ngày nay). 

Nhưng Payless đã không tính đến sự cạnh tranh từ các nhà bán lẻ giảm giá như Target và Walmart, vốn nhanh chóng trở nên nổi tiếng trong suốt những năm 2000. Và thời điểm quyết định là khi các nhà bán lẻ trực tuyến như Zappos bắt đầu thống trị, doanh số của Payless đã chật vật. Việc bán lẻ trực tuyến ngày càng phát triển đã khiến Payless – một gã khổng lồ vốn mạnh về chuỗi cửa hàng bán lẻ – đã trở nên đuối sức khi không theo kịp sự chuyển dịch của thời đại số.

Lần đầu tiên Payless nộp đơn xin phá sản là vào tháng 4/2017 với 4.000 cửa hàng ở 30 quốc gia. Thời điểm tái cấu trúc năm 2012, công ty vẫn phải vật lộn với khoản nợ 847 triệu USD. Sau khi lần đầu xin phá sản, Payless đã đóng cửa 700 cửa hàng và giảm bớt 435 triệu USD tiền nợ. Công ty quay trở lại hoạt động vào tháng 8/2017. Tháng 2/2019, Payless đã phải lần thứ 2 xin phá sản và đóng cửa toàn bộ 2.500 cửa hàng tại Mỹ. Hồ sơ ghi nhận công ty có khoản nợ 470 triệu USD. 


2. Blockbuster

Vào thời kỳ đỉnh cao năm 2004, Blockbuster đã tuyển dụng 60.000 người. Với hơn 9.000 địa điểm kinh doanh trên toàn cầu, gã khổng lồ cho thuê phim được định giá khoảng 5 tỷ đô la. 

Năm 2000, nhà sáng lập Reed Hastings của công ty còn non trẻ Netflix đã đề xuất hợp tác với gã khổng lồ Blockbuster sử dụng kho video của Blockbuster online và quảng cáo thương hiệu cho hãng. Đổi lại, Blockbuster sẽ cung cấp dịch vụ Netflix trong các cửa hàng của mình. Khi đề xuất ý tưởng này, ông Reed Hasting đã bị CEO John Antioco và ban điều hành Blockbuster cười nhạo. Sau đó 10 năm, Blockbuster phá sản còn Netflix hiện là công ty có tổng giá trị khoảng 28 tỷ USD (ước tính vào năm 2014), cao gấp 10 lần so với tổng giá trị của Blockbuster vào thời đỉnh cao.

Sự phát triển không ngừng của Internet đã tạo nên một cuộc cách mạng. Nhiều người đã chuyển từ xem phim DVD sang xem phim trực tuyến cùng truy cập các nội dung khác qua mạng Internet, trong khi đó Blockbuster lại không chịu thay đổi nhanh chóng để bắt kịp xu thế này.

Từ một công ty hầu như nắm phần lớn thị phần cho thuê DVD trở thành một công ty lạc hậu, Blockbuster buộc phải đệ đơn xin phá sản vào năm 2010, kéo theo sự đóng cửa của hàng loạt cửa hàng và khiến hàng ngàn người mất việc. Tháng 11/2013, Blockbuster đã tuyên bố đóng cửa 300 cửa hàng còn lại thuộc công ty. Tuy nhiên các cửa hàng nhượng quyền thương mại tại 50 quốc gia khác vẫn sẽ mở cửa.

Sự biến mất của công ty cho thuê DVD và video trò chơi là ví dụ mới nhất cho hậu quả của việc không theo kịp các xu hướng công nghệ hiện đại, cũng như các công ty mới nổi.


3. Borders Group

Với hơn 40 năm tuổi, Borders Group từng là hãng bán lẻ sách lớn thứ 2 tại Mỹ sau Barnes & Noble và là cơn ác mộng của các cửa hàng bán sách nhỏ khi mở rộng hoạt động mạnh mẽ tại Mỹ giữa những năm 1990. Borders có hơn 600 địa điểm tại các sân bay, trung tâm mua sắm và trung tâm mua sắm ở Mỹ và châu Á Thái Bình Dương.

Tuy nhiên, đây cũng chính là sai lầm lớn dẫn đến thất bại của gã khổng lồ sách này khi ưu tiên mở rộng các cửa hàng sách truyền thống thay vì phát triển những sản phẩm số theo xu hướng của người sử dụng. Năm 1997, Amazon được thành lập với vai trò một hiệu sách trực tuyến. Và câu chuyện trở nên căng thẳng hơn khi vào năm 2007, Amazon đã cho ra mắt Kindle – trình đọc sách điện tử đầu tiên trên thế giới và là sản phẩm đã khiến cổ phiếu của Amazon tăng mạnh, dần chiếm lĩnh thị trường của 2 ông lớn. Thời điểm đó, Barnes & Nobles đã nhận ra xu hướng của khách hàng và cũng tung ra những đầu sách điện tử của riêng mình để tồn tại trong thời đại kỹ thuật số. Tuy nhiên doanh thu hàng năm vẫn bị giảm mạnh còn Amazon không ngừng tăng trưởng thị phần. 

Những nỗ lực cắt giảm chi phí và thúc đẩy doanh số bằng cách đóng cửa các cửa hàng đem lại ít lợi nhuận và việc tân trang trang web của Borders vẫn không thể giúp công ty này thoát khỏi khoản nợ 1,3 tỷ USD. Thất bại trong việc thích ứng với những thay đổi trong thị hiếu của khách hàng, năm 2011 Borders nộp đơn xin phá sản ở thời điểm hãng sở hữu 650 cửa hàng. Cửa hàng cuối cùng được thanh lý và đóng cửa vào tháng 9/2011. 


4. Sports Authority

Tại nhiều thời điểm, Sports Authority từng là nhà bán lẻ lớn nhất về các mặt hàng thể thao ở Mỹ. Năm 2005, Sports Authority có doanh số 2,5 tỷ đô la trên gần 400 cửa hàng, là địa điểm đến được nghĩ đến đầu tiên về mặt hàng thể thao và dụng cụ tập luyện trong suốt những năm 1990. Trong thời đại tiền Internet, đó là một gã khổng lồ thực sự đáng gờm.

Tuy nhiên trong suốt thập kỷ tiếp theo, Sports Agency phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp tương tự như Dicks Sports Goods. Và cuối cùng sự ra đời của các giao dịch bán lẻ trực tuyến được thực hiện trên Amazon và giao dịch với các giải đấu thể thao đã đánh dấu sự lung lay chính thức từ công ty này. Doanh thu của chuỗi cửa hàng từ năm 2013 đến 2014 không có dấu hiệu thay đổi mặc dù họ cũng đã nỗ lực đầu tư mạnh vào thị trường thương mại điện tử và tu sửa các cửa hàng, 

Vào tháng 3 năm 2016, Sports Authority đã nộp đơn xin phá sản với một khoản nợ khổng lồ. Nó có 7.500 nhân viên tại thời điểm đó. Cùng năm đó, chuỗi này đã đóng cửa tất cả các cửa hàng trên toàn quốc.

Sự chuyển đổi chóng mặt của doanh số từ các thương hiệu bán lẻ truyền thống sang các đại lý trực tuyến cùng sự thay đổi thị hiếu đã đẩy các công ty truyền thống không thể bắt kịp thời đại như Sports Authority đến bờ vực sụp đổ.


5. Charming Charlie

Được thành lập vào năm 2004, được biết đến với việc cung cấp một loạt các phụ kiện may mặc và phụ kiện thời trang, làm đẹp, quà tặng và nhiều thứ khác, Charming Charlie là trụ cột của các trung tâm thương mại Mỹ vào những năm 2000. Ở đỉnh cao, chuỗi phụ kiện đã có gần 400 cửa hàng trên khắp thế giới.

Nhưng chuỗi cửa hàng phụ kiện dành cho phụ nữ ngày càng mất đi sức hút vì xu hướng tìm đến trung tâm mua sắm đã giảm đi rất nhiều. Những người trẻ – thành phần khách hàng chính mà công ty này hướng đến – đang ngày càng đi theo xu hướng mua sắm trực tuyến. Charming Charlies phải đối mặt với chi phí hoạt động không bền vững, bao gồm cả chi phí bất động sản, mà nhiều cửa hàng truyền thống đang chiến đấu với các nhà bán lẻ trực tuyến. 

Năm 2017, Charming Charlies nộp đơn xin phá sản và đóng cửa 100 cửa hàng. Sau khi tái cấu trúc tài chính thành công, công ty đã nổi lên từ sự phá sản vào năm 2018. Nhưng vẫn chưa đủ, một năm sau Charming Charlies thông báo phá sản lần thứ 2, chính thức đóng cửa trang web và toàn bộ cửa hàng vào tháng 8/2019.


 6. Gymboree

Gymboree, bắt đầu sản xuất quần áo trẻ em từ hơn 30 năm trước, vận hành khoảng 540 cửa hàng tại Hoa Kỳ và Canada. Thương hiệu này cũng có khoảng 265 cửa hàng trên khắp Hoa Kỳ dưới thương hiệu ‘Crazy 8’ và 139 cửa hàng với cái tên ‘Janie và Jack.’

Thương hiệu quần áo trẻ em cao cấp này đã bắt đầu một thập kỷ tuyệt vời. Nhưng sau đó mọi thứ trở nên tồi tệ. Bain Capital đã mua lại Gymboree thông qua việc mua lại có đòn bẩy với giá khoảng 1,8 tỷ đô la vào năm 2010, nhưng sự mở rộng kinh doanh một cách không bền vững đã khiến công ty rơi vào tình trạng nợ nần khủng hoảng mà không thể giải quyết khi doanh số giảm mạnh. Giọt nước cuối cùng tràn ly là khi sự cạnh tranh mạnh mẽ từ những giao dịch trực tuyến từ các gã đối thủ cùng ngành như Gap, Children’s Place hay Amazon đè nặng lên Gymboree.

Vào hồi tháng 1 năm 2019, chuỗi hàng bán lẻ thời trang trẻ em đã tuyên bố đóng cửa sau thời gian dài làm ăn thua lỗ. Công ty đã đóng cửa phần lớn trong số 900 cửa hàng của mình tại thời điểm đó, bao gồm các thương hiệu Gymboree, Janie và Jack và Crazy 8.


7. A&P

Được thành lập vào năm 1859 tại New York, A & P – viết tắt của Great Atlantic & Pacific Tea – là chuỗi cửa hàng tạp hóa lớn nhất ở Mỹ từ năm 1915 đến 1975. Nhờ lợi thế mua được số lượng lớn hàng tồn kho từ các nhà cung cấp mà A & P có thể bán giá thấp hơn so với các cửa hàng tạp hóa truyền thống. Bên cạnh đó, việc cắt giảm chi phí bằng cách sản xuất trực tiếp đã cho phép công ty kiểm soát gần như tất cả các khía cạnh của ngạch bán lẻ tạp hóa. 

Tuy nhiên, đến thập niên 1970, các cửa hàng của A & P đã lỗi thời so với đối thủ cạnh tranh – chính là các siêu thị lớn hơn với các tính năng hiện đại. Trong vài thập kỷ tiếp theo, các thương hiệu tạp hóa chuyên dụng như Whole Food và Trader Joe’s bắt đầu thống trị thị trường tạp hóa. Không thể theo kịp các xu hướng mới và kết nối với người tiêu dùng, A & P bắt đầu trở thành cửa hàng sở hữu dịch vụ khách hàng kém và chi phí vận hành cao. Và ngay sau đó cuộc đại suy thoái kinh tế đã đẩy mạnh doanh số của A & P sụt giảm không phanh.

Vào năm 2010, chuỗi bán lẻ tạp hóa 156 tuổi lần đầu tiên nộp đơn xin phá sản và tái xuất hiện 2 năm sau đó với tư cách là một công ty tư nhân được đầu từ tài chính. Nhưng doanh số lại giảm và công ty đã báo cáo khoản lỗ $ 305 triệu cho năm tài chính 2014 của mình. A & P đã nộp đơn xin phá sản lần thứ hai và đóng cửa tất cả các cửa hàng của mình.


8. Wow air

Thành lập vào năm 2011, WOW Air trở thành lựa chọn phổ biến khi cung cấp các chuyến bay giá rẻ từ Mỹ đến châu Âu, thường với giá dưới 200 đô la. Hãng đã vận chuyển hơn 400.000 hành khách trong năm 2013 và đạt hành khách thứ một triệu vào tháng 12 năm 2014. Năm 2018, hãng hàng không này đã thuê hơn 1.000 người, có 11 máy bay và vận chuyển khoảng 3,5 triệu hành khách. Hãng hàng không WOW Air đã giúp du lịch trở thành cỗ máy kiếm tiền lớn nhất của Iceland, tạo nên làn sóng du lịch giúp đất nước thoát khỏi sự sụp đổ tài chính cách đây hơn một thập kỷ. 

Tuy nhiên, những năm gần đây, WOW Air đã gặp rắc rối về tài chính do sự cạnh tranh ngày càng tăng trên các chuyến bay giá rẻ xuyên Đại Tây Dương đồng thời giá nhiên liệu tăng mà chưa thể tìm kiếm một nhà đầu tư trong nhiều tháng.

Vào ngày 28 tháng 3 năm 2019, Wow Air bất ngờ tuyên bố ngừng mọi hoạt động, khiến hàng trăm hành khách mắc kẹt. CEO Skuli Mogensen xác nhận rằng hơn 1.000 người sẽ bị ảnh hưởng. Wow Air đã từng bay hơn 1/4 số du khách đến Iceland và sau khi ngừng hoạt động bất ngờ, Iceland đã chứng kiến ​​sự sụt giảm đáng chú ý trong ngành du lịch và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.


9. Henri Bendel

Henri Bendel thành lập cửa hàng tên tuổi của mình vào năm 1895, và thương hiệu và nhà bán lẻ trở thành người tiên phong trong thế giới thời trang xa xỉ. Bắt đầu từ năm 2008, thương hiệu đã mở rộng ra khỏi cửa hàng New York để trở thành một chuỗi quốc gia với 28 cửa hàng trên khắp Hoa Kỳ. Năm 2009, Henri Bendel ngừng bán hàng may mặc. Vào năm 2014, cửa hàng bắt đầu chỉ bán túi xách, trang sức, phụ kiện thời trang và nước hoa mang nhãn hiệu của Henri Bendel, theo mô hình được đặt tại các cửa hàng khác. 

Tuy nhiên, Henri Bendel tuyên bố vào tháng 9 năm 2018 rằng họ sẽ đóng cửa tất cả 23 cửa hàng và kết thúc kinh doanh vì thương hiệu 124 tuổi này đã không còn phù hợp với người tiêu dùng.  Mặc dù có vị thế mang tính biểu tượng một thời, nhưng Henri Bendel đã mất hơn 45 triệu đô la chi phí vận hành trong năm 2018.

Vào ngày 19 tháng 1 năm 2019, tất cả các cửa hàng của Henri Bendel đã bị đóng cửa và trang web của nó đã bị đóng cửa vào ngày 28 tháng 1 năm 2019.


10. Toy ‘R’ Us

Là thương hiệu bán lẻ các sản phẩm trẻ em của Mỹ, Toys “R” Us từ một cửa hàng đã phát triển thành một chuỗi thương hiệu chuyên cung cấp đồ chơi, thời trang, video game và đồ dùng cho trẻ em. Nhờ có Toys “R” Us, giá trị của ngành công nghiệp đồ chơi đã tăng từ 500 triệu đô la năm 1950 lên 12 tỷ đô la vào năm 1990. Vào thời kỳ đỉnh cao, công ty kiểm soát một phần tư thị trường đồ chơi toàn cầu và bán 18.000 đồ chơi khác nhau ở hơn 1.000 cửa hàng khác nhau.

Tuy nhiên, từ năm 1998, mọi thứ bắt đầu thay đổi khi Walmart quyết định đối đầu trực diện với Toys ‘R’ Us và đặt mục tiêu chiếm lĩnh thị trường đồ chơi bán ra vào mùa lễ hội. Kết quả là, doanh số của Toys ‘R’ Us cứ thế giảm dần theo thời gian. Những người đặt dấu chấm hết cho đế chế đồ chơi nổi tiếng này không ai xa lạ chính là những nhà bán lẻ khổng lồ Walmart, Target,… Sau cùng kẻ đặt dấu chấm hết cho đế chế đồ chơi này không ai xa lạ chính là trang thương mại điện tử Amazon khi thói quen tiêu dùng của người Mỹ thay đổi.

Không có lãi kể từ năm 2012 và thua lỗ tới 2,5 tỷ USD, Toys “R” Us đã thanh lý các cửa hàng tại Mỹ sau khi nỗ lực tái cơ cấu thông qua phá sản thất bại. Đây là một trong những vụ phá sản lớn nhất ngành bán lẻ Mỹ khi công ty đệ đơn xin phá sản vào tháng 9/2017 đồng thời đóng các trang web Toys “R” Us và Babies R Us với số nợ hơn 5 tỷ đô la. 

Trước cuộc tấn công ồ ạt của thương mại điện tử đã và đang diễn ra, các nhà kinh doanh truyền thống thiết nghĩ sẽ phải chuẩn bị tinh thần và đối sách cho cuộc chiến đầy cam go phía trước.

Số phận chung của những kẻ không nắm bắt xu hướng

Bạn sẽ nhận thấy những doanh nghiệp cuối cùng buộc phải đóng cửa hầu như là những doanh nghiệp đã bỏ qua việc theo kịp nhu cầu của thị trường. Trong thời đại IOT (internet of things) – mạng lưới vạn vật kết nối Internet, thì sự hụt hơi của những ngành kinh doanh, những lĩnh vực không hợp thời, không theo kịp xu thế và đặc biệt là không thể ứng dụng trên internet là điều khó tránh khỏi.

Vào thời đó, Netflix vẫn là một dịch vụ gửi thư DVD và ai có thể biết cuối cùng nó sẽ trở thành gì. Khi Blockbuster có cơ hội mua công ty với giá 50 triệu đô la, họ đã phải “đấu tranh để không cười cợt lời đề nghị” – trước khi từ chối.

Việc những doanh nghiệp đó phải đóng cửa là một triệu chứng lớn nhất của sự thay đổi phương thức và sở thích mua hàng trong thập niên qua. Cán cân dường như quá chênh lệch, khi kinh doanh truyền thống cần nhiều chi phí cho mặt bằng, nhân viên, và rất nhiều chi phí quảng bá mới có thể khiến người tiêu dùng đến với cửa hàng của mình; đặc biệt là với thương mại điện tử chỉ cần một cú nhấp chuột và liên tục có vô số những khuyến mãi cực kỳ hấp dẫn.

Cái kết không thể khác nếu thờ ơ với Chuyển đổi số

Gọi đó là những “thảm họa doanh nghiệp” bởi vì sự sụp đổ của các doanh nghiệp này là điều không thể ngờ tới với nhiều người.  Ai có thể đoán được họ – các doanh nghiệp lớn và truyền thống – đã từng sừng sững ở đó có khi đến hàng trăm năm, từng nắm thị phần lớn nhất trong ngành của mình lại biến mất trong một khoảng thời gian vô cùng ngắn ngủi.  Điểm yếu của họ chính là bị giới hạn bởi sức ì của hệ thống cơ chế, quy trình, vì thế mất đi khả năng linh hoạt và sáng tạo. Và điểm chung của những đế chế này là đều bị thất bại trước những startup công nghệ – nói cách khác – họ đã bị công nghệ đánh bại.

Và nhiều công ty mà chúng ta thấy ngày nay, Tesla, Netflix, Facebook, v.v., liệu họ có ở đó 10 năm nữa không? 20? 100? Không thể biết được. Một số người nghĩ rằng Tesla sẽ ở đây lớn mạnh mãi mãi, nhưng cũng không thể chắc chắn sẽ không gặp số phận tương tự như những đế chế từng làm mưa làm gió trong danh sách của chúng ta. Những doanh nghiệp muốn tồn tại trong nhiều thập kỷ tới sẽ luôn phải thức thời, đi theo xu hướng của thị trường – và tất nhiên rồi – không thể rời xa sự phát triển song hành của công nghệ.

Tuy nhiên, không chỉ  là lời cảnh tỉnh cho những doanh nghiệp lớn, những startup hay doanh nghiệp quy mô nhỏ cũng cần thức thời để không đi theo vết xe đổ như 10 “thảm họa” trên. Chuyển đổi số là sân chơi công bằng cho tất cả mọi doanh nghiệp, ở đó bất kì ai đủ nhanh nhạy cũng có thể tìm được miếng bánh cho riêng mình. Việc bị đào thải sẽ không kiêng dè bất kỳ ai nếu không bắt kịp thời đại.

Mỗi doanh nghiệp đều có những ưu và nhược điểm, để bắt đầu bước vào cuộc chiến 4.0 bạn buộc phải hiểu rõ “năng lực doanh nghiệp” của mình. Chỉ cần vài phút thực hiện Bản đánh giá Năng lực chuyển đổi số để biết mình đang ở đâu trong cuộc hành trình 4.0!

Base.vn – Nền Tảng Quản Trị Doanh Nghiệp Toàn Diện, tự hào đồng hành cùng +8000 khách hàng doanh nghiệp hàng đầu trong nhiều lĩnh vực như: VIB, ACB, MB, Sacombank, VPBank, Vissan, Golden Gate, Pizza Hut, Twitter Beans Coffee, Decathlon, Bamboo Airways, Ninja Van Việt Nam, Rạng Đông, Á Đông ADG, Nagakawa Group, CenLand, Địa Ốc Him Lam, Ecopark, Amber Academy, Goldsun Media Group, Urbox, Medipharco, Bệnh viện Phổi Trung Ương, Bệnh viện Gia An 115, Thái Hà Books…

Để nhận tư vấn 1-1 và tham gia demo trải nghiệm tính năng các phần mềm quản trị vận hành của Base, bạn có thể ĐĂNG KÝ TẠI ĐÂY

Viết một bình luận